NUÔI TRỒNG THỦY SẢN – THUẬN LỢI VÀ THÁCH THỨC
Việt Nam có bờ biển dài trên 3200 km và có vùng mặt nước nội địa rộng lớn, tới
hơn 1.4 triệu ha nhờ hệ thống sông ngòi, đầm phá dầy đặc. Điều kiện đất đai, khí hậu
nhìn chung rất thuận lợi, khiến Việt Nam từ lâu đã trở thành một trong những quốc gia
sản xuất và xuất khẩu thủy sản hàng đầu khu vực. Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi
đó, ngành nuôi trồng thủy sản Việt Nam cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức
từ ô nhiễm môi trường, khí hậu, thời tiết, nguồn nước, dịch bệnh đang hằng ngày gây ra
những rủi ro cho người nuôi.

nuôi trồng thủy sản
I. Môi trường luôn là điều kiện kiên quyết đối với nuôi trồng thủy sản.
Hầu hết các thất bại là do ô nhiễm môi trường. Từ môi trường ô nhiễm sinh ra các
khí độc, gây sốc và gây các bệnh về sinh lý (không do nhiễm trùng) và kích thích các
vi sinh vật cơ hội phát triển gây bệnh nhiễm trùng. Các chất hữu cơ không mong muốn
tích lũy trong ao nuôi, gây nên tình trạng phú dưỡng.
Ví dụ, lượng thức ăn nuôi tôm đưa vào ao nuôi quá nhiều, trong khi tôm chỉ
sử dụng được khoảng 20%, số còn lại tích lũy trong môi trường. Các nguồn khác như
xác tảo, rong rêu, xác động vật thủy sinh, vỏ tôm sau khi lột…cũng góp phần làm tăng
lượng chất hữu cơ trong ao. Chỉ số BOD tăng khiến cho ao thiếu oxi. Các chất hữu cơ
lắng xuống đáy kích thích vi sinh vật kỵ khí phát triển sinh ra các khí độc. Môi trường
tốt còn luôn phải đảm bảo các điều kiện nhiệt độ, pH, độ mặn, oxy hòa tan, BOD, COD
► Nhiệt độ:
Động vật thủy sinh là động vật biến nhiệt, là hệ thống mở, tức là luôn phụ thuộc vào
điều kiện môi trường. Nhiệt độ môi trường, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sống như
hô hấp, tiêu hóa thức ăn, khả năng chống chịu dịch bệnh và môi trường bất lợi trong nuôi trồng thủy sản. Nhiệt độ
thích hợp cho nuôi tôm là 28 -35oC.
► pH ảnh hưởng lớn đến khả năng sinh trưởng của tôm, cá:
pH thích hợp trong khoảng từ 7.5 – 8.5. pH thấp làm tổn thương đến phần phụ,
mang, quá trình lột vỏ và độ cứng của vỏ tôm. pH thấp làm tăng tính độc của H2S gây
ngộ độc cho tôm. pH tăng làm tăng tính độc của NH3. Do vậy cần kiểm tra và điều
► Độ mặn:
Độ mặn được tính dựa trên tổng nồng độ các ion hòa tan trong nước, ảnh hưởng trực
tiếp đến đời sống thủy sinh vật và thay đổi tùy loài. Với tôm sú, độ mặn thích hợp là 18
– 30‰ , tối ưu là 18 – 25‰.
► Oxi hòa tan:
Oxy dùng để cho động vật hô hấp và dùng để Oxy hóa (phân giải) các chất hữu cơ
dư thừa trong ao nuôi. Lượng Oxy hòa tan thích hợp là 5 – 8mg/L. Nếu Oxy < 4mg/L sẽ
làm cho tôm sử dụng thức ăn kém và dễ bị nhiễm bệnh. Nếu Oxy < 3,5mg/L có thể làm
► Độ kiềm:
Đơn vị biểu hiện độ kiềm tính bằng mg/L CaCO3. Nước có độ kiềm cao là nước
cứng, còn thấp là nước mềm. Độ kiềm thích hợp buổi sáng là 80 – 120 mg/L. Sự thay
đổi của độ kiềm sẽ liên quan đến thay đổi pH, môi trường.
► Amôn:
Trong nước amôn tồn tại dưới dạng NH3 và NH4. Amôn là sản phẩm khoáng hóa
(phân hủy) các hợp chất hữu cơ chứa nitơ (protein, axit amin, kitin) nhờ vi sinh vật
NH4 ít độc hoặc không độc trừ khi hàm lượng quá cao, NH3 là chất rất độc đối với tôm,
cá. NH3 chịu ảnh hưởng của pH, nhiệt độ và độ mặn. Khi pH thấp, NH3 chuyển hóa
thành NH4. Trong ao nuôi nếu nhiệt độ thấp, độ mặn cao thì thì khả năng chịu đựng của
Để làm giảm nồng độ NH3 cần tăng cường sử dụng chế phẩm vi sinh chứa các vi
khuẩn nitrat hóa, ví dụ chế phẩm EMUNIV.S chứa các vi khuẩn Nitrosomonas chuyển
hóa NH3 thành NO‾2, rồi sau đó vi khuẩn Nitrobacter chuyển hóa NO‾2 thành NO‾3,
là nguồn thức ăn tốt cho tảo. Để làm giảm NH3 trong nước cũng có thể dùng bột cây
Yucca (Yucca schidigera), 1,5 kg/1000m3 (hai tuần sử lí một lần) hoặc bổ sung vào thức
ăn để làm giảm độc tính của NH3. Hàm lượng NH3 an toàn phải < 0,10mg/L.

nuôi trồng thủy sản
► NO‾2 (nitrit):
Là sản phẩm của quá trình nitrit hóa (gọi chung là quá trình nitrit hóa), tức là oxi
hóa amôn do các vi khuẩn nitrat hóa, đại diện là Nitrosomonas thực hiện. Hàm lượng
NO2<0,5mg/L không gây độc. Nếu cao, NO‾2 có thể phản ứng với hemoglobin tạo
thành methemoglobin, làm giảm sự vận chuyển oxi đến tế bào. Về phần mình, NO‾2 lại
được chuyển hóa tiếp nhờ các vi khuẩn nitrat hóa, đại diện là Nitrobacter, thành NO‾3.
NO‾3 là nguồn thức ăn tốt cho tảo và thực vật phù du, nhưng nếu vượt quá 7mg/L thì
môi trường sẽ bị phú dưỡng và nhiễm bẩn.
► Photphat:
Photphat cần cho sự phát triển của tảo. Trong nước hàm lượng photphat được xác
định thông qua hàm lượng PO3-4, thường ít khi vượt quá 1mg/L. Đa số PO3-4 được
bùn đáy hấp thu và trở lại môi trường. Ở đầm nuôi đất chua phèn (chứa sulphat sắt và
sunphat nhôm) thì PO3-4 bị kết tủa nhiều, nên cần phải bón nhiều lân. Hàm lượng PO3-
thích hợp là 0,5mg/L. Nếu hàm lượng nito và photphat cao, môi trường sẽ trở nên phú
dưỡng. Rong tảo sẽ phát triển vượt trội, khi chết sẽ bị vi sinh vật phân giải, làm cho
nước bị đục, có mùi hôi thối, oxi hòa tan giảm, vật nuội sinh trưởng chậm, dễ bị mắc
bệnh hoặc bị chết vì ngạt thở.
► H2S:
Ở tầng đáy, các vi khuẩn lưu huỳnh tiến hành khử sulfat trong điều kiện kị khí để tạo
H2S. H2S là chất độc ảnh hưởng đến sức khỏe của tôm. Mức độ độc của H2S liên quan
đến nhiệt độ và pH của ao nuôi. Ở môi trường axit ( cung cấp nhiều ion H+) , phản ứng
phân hủy chất hữu cơ tạo H2S sẽ tăng lên, gây độc cho tôm. Hàm lượng H2S trong ao
nuôi không được vượt quá 0,1 mg/L.
II. Mầm bệnh:

nuôi trồng thủy sản
Các vi sinh vật gây bệnh cho tôm rất đa dạng, có thể là virut, vi khuẩn, nấm, động
vật nguyên sinh. Một số nhiễm từ tôm giống, còn phần lớn là do môi trường. Chúng có
sẵn trong ao, đầm nuôi tôm. Nước càng ô nhiễm thì số lượng của chúng càng nhiều và
Bệnh do virut: Có khoảng 15- 16 loài virut gây bệnh cho tôm, chúng thường lan rất
nhanh và làm cho tỉ lệ tôm chết cao.
Các bệnh phổ biến là:
► Bệnh BMV (Monodon Baculovirus): Thuộc họ Baculoviridae có dạng hình que, có
lớp vỏ bọc ( occlusion body) genom là AND kép, xâm nhiễm vào tế bào biểu mô dạng
ống của gan, tụy và tế bào biểu bì phía trước của ruột giữa, gây bệnh cho tôm sú và
nhiều loại tôm khác. Tôm bị bệnh có màu tối hoặc xannh tái. Các phần phụ và vỏ kitin,
có nhiều vi sinh vật bám, gan, tụy bị teo. Tôm yếu dạt vào bờ. Tỉ lệ chết cao, đến 70 –
Virut gây hội chứng đốm trắng (white spot dyndrom virut-WSSV) thuộc họ
Nimaviridae genom là AND kép. Virut hình elip hay hình que, có vỏ ngoài, ở đầu vỏ
mọc ra một đoạn protein giống như cái đuôi. Dấu hiệu đặc trưng của tôm bệnh là xuất
hiện đốm trắng ở dưới vỏ. Tôm ốm bỏ ăn, ít hoạt động, dạt vào bờ, nắp mang phồng,
vỏ có nhiều sinh vật bám, gan tụy có màu trắng hay vàng. Tỉ lệ tôm phát bệnh sau 6 – 7
ngày có thể làm tôm chết lên đến 100%.
Virut gây bệnh vàng đầu ( Yellow head virut- YHV) thuộc họ Ronividae, genom
là AND đơn, dương. Virut xâm nhập vào tế bào, gan, ruột gây các triệu chứng như di
chuyển chậm, lờ đờ. Mang và gan, tụy có màu vàng nhạt sau đó chuyển sang nâu. Toàn
thân màu nhợt nhạt. Sau 3-5 ngày, tỉ lệ chết có thể lên đến 100%.
► Bệnh nhiễm virut hoại tử dưới vỏ và cơ quan tạo máu (Ifectious hypodermal and
haematopoietic necrosis virut- IHHNV):
Virut thuộc họ Pravoviridae, có genom là AND đơn, nhiễm vào tế bào nhiễm anten
và tế bào hệ bạch huyết, tế bào mang và tế bào thần kinh gây hoại tử. Bệnh xuất hiện từ
tôm post đến tôm trưởng thành. Tỉ lệ chết tương đối cao.
Nhiều loại vi khuẩn gây bệnh cho tôm, làm cho tôm chậm phát triển, chết lác đác
hoặc chết hàng loạt. Thường gặp nhất là vi khuẩn Vibrio, thuộc họ Vibrionaceae vi
khuẩn hình que hơi uốn cong, Gram âm, kị khí, không sinh bào tử. Các loại gây bệnh
cho tôm gồm; V.parahaemolyticus, V. alginolyticus, V. vulnificus, V. harvey, V.
V. parahaemolyticus gây bệnh phát sáng ở tôm sú, cả ấu trùng và tôm trưởng thành. V. harvey,
vulnificus, V. anguillarum…gây bệnh đỏ thân ở tôm sú thịt, bệnh mòn vỏ kitin, phần phụ như râu,
chân bò, chân bơi và đuôi.
Tôm nhiễm bệnh thay đổi tập tính như dạt vào bờ, lờ đờ, bỏ ăn, đổi sang màu đỏ
Vi khuẩn Vibrio có sẵn trong đầm nuôi. Số lượng của chúng tăng dần tùy thuộc vào
độ ô nhiễm môi trường. Mật độ cao nhất vào cuối vụ khi hàm lượng chất hữu cơ tăng
cao. Khi mật độ đạt >103 thì tôm bị bệnh. Vì thế vi khuẩn này được coi là vi khuẩn cơ
Tôm thường bị nhiễm nấm ở giai đoạn ấu trùng. Tác nhân chủ yếu là Lagenidium
callinectes và Sirolpidium ssp. Ở giai đoạn protozoea và mysis tôm bị nhiễm với triệu
trứng lờ đờ rồi chết. nấm Mucor bám vào mang. Fusarium nhiễm vào các giai đoạn
của tôm, làm đen mang dẫn đến tỉ lệ chết cao.
► Bệnh do động vật nguyên sinh:
Protozoa luôn có mặt trong ao nuôi, các loại gây bệnh bao gồm các chi Zoothamium,
Lagenophrys, gregaries kí sinh trong ruột làm tôm chậm lớn. Nếu mật độ quá dầy có
thể làm tôm chết. Microsporea bám vào cơ vân làm đục cơ. Một số kí sinh ở phía ngoài
như Zoothamium ssp, Epistylis ssp, gây cản trở đến chức năng hô hấp của tôm.
Phần lớn các vi sinh vật kể trên có sẵn trong môi trường, là một phần của hệ vi sinh
vật bình thường trong môi trường. Chúng được xem là tác nhân gây bệnh thứ cấp hoặc
vi sinh vật cơ hội. Một khi sự cân bằng của vi sinh vật trong ao nuôi bị phá vỡ, các vi
sinh vật có hại phát triển ồ ạt và sớm cộng hưởng với các yếu tố có hại khác trong môi
trường để gây bệnh. Sự ô nhiễm môi trường trong thời gian gắn sẽ tác động tới hệ thần
kinh, trong thời gian dài sẽ làm tăng Strets, dẫn đến giảm khả năng tiêu thụ thức ăn,
giảm tăng trưởng, làm tăng tính mẫn cảm với các tác nhân gây bệnh, dặc biệt là virut.

nuôi trồng thủy sản
Tất cả các yếu tố nêu trên sẽ làm cho thủy sản chết hàng loạt chỉ trong một thời gian
Việc sử dụng hóa chất và chất kháng sinh để trị bệnh cho tôm sẽ không đảm bảo vệ
sinh an toàn thực phẩm. Hóa chất tồn dư trong sản phẩm khi tích lũy đến nồng độ sinh
học, sẽ gây bệnh cho người dùng. Chất kháng sinh tích lũy trong ao sẽ gây hiện tượng
kháng thuốc. Gen kháng thuốc có thể truyền từ vi khuẩn trong ao cho các vi khuẩn gây
bệnh cho người làm cho chúng cũng trở thành kháng thuốc, dẫn đến việc dùng thuốc
kháng sinh để trị bệnh cho người không còn hiệu quả nữa.
Nếu không sử dụng hóa chất và chất kháng sinh thì giải pháp hữu hiệu để giải quyết
vấn đề ô nhiễm môi trường ao nuôi chính là sử dụng các chế phẩm sinh học. Biện pháp
này là giải pháp tối ưu nhất và đang được sử dụng phổ biến ở tất cả các quốc gia nuôi
trồng thủy sản, cả Đông và Tây bán cầu, trong đó có việt Nam.
Nguồn: Công ty Cổ phần Vi sinh Ứng dụng
Đánh giá
Chưa có đánh giá nào.